
Hệ thống giám sát phát thải khí methane tự động trong sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp của HTX nông nghiệp Phước Hảo (Huyện Châu Thành).
Nhiều năm qua, Trà Vinh kiên trì định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao như một "trụ cột" để tái cấu trúc kinh tế nông thôn. Nghị quyết số 08-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đặt mục tiêu rất rõ: chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang kinh tế nông nghiệp hàng hóa, tổ chức theo chuỗi giá trị, vận hành trên nền tảng công nghệ cao, an toàn, hiện đại và thân thiện môi trường.
Trà Vinh đưa vào sử dụng hơn 60 máy bay không người lái phục vụ phun thuốc, bón phân, khảo sát ruộng lúa và vườn cây; 13 hệ thống giám sát côn trùng thông minh cho lúa và cây ăn trái; các trạm quan trắc tự động sử dụng cảm biến đo gió, nhiệt độ, độ ẩm, độ mặn, diễn biến nước. Dữ liệu từ đồng ruộng, ao nuôi được cập nhật trực tuyến về cơ quan chuyên môn, giúp cảnh báo sớm sâu bệnh, rủi ro môi trường, hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa.
Trong lĩnh vực thủy sản, hơn 11.000 ha nuôi thâm canh và mật độ cao, hàng trăm ha đạt chứng nhận GAP, BAP, ASC. Một số hộ, doanh nghiệp đã lắp đặt hệ thống giám sát môi trường ao nuôi theo công nghệ IoT, phân tích và cảnh báo chất lượng nước theo thời gian thực, hạn chế dịch bệnh, giảm thiểu thiệt hại.
Không chỉ ứng dụng trong khâu sản xuất, Trà Vinh còn đưa công nghệ vào quản lý ngành. Tỉnh triển khai phần mềm cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở dữ liệu thủy sản, hệ thống giám sát tàu cá, phần mềm thống kê trực tuyến, hệ thống theo dõi phát thải khí methane trên cánh đồng lúa. Các giải pháp truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, mã vạch dần trở nên quen thuộc với nông dân, giúp sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Toàn tỉnh Trà Vinh hiện có gần 30.000 ha nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trong đó gần 9.800 ha dùng tưới phun bán tự động, hơn 8.700 ha sản xuất theo VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ, hơn 11.000 ha nuôi thủy sản thâm canh và siêu thâm canh. Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất trồng trọt đạt khoảng 155 triệu đồng mỗi năm, tăng gần 20 triệu đồng so với trước; đất nuôi trồng thủy sản đạt khoảng 410 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân trên 100 triệu đồng/ha. Thu nhập của người dân nông thôn lên tới khoảng 53 triệu đồng/người/năm, gần gấp đôi so với hơn một thập kỷ trước.
Từ những con số ấy, có thể thấy rõ mối liên hệ giữa khoa học – công nghệ và giảm nghèo bền vững: Năng suất tăng, giá trị gia tăng cao hơn, rủi ro sản xuất giảm đi, thu nhập nông dân dần ổn định và ít phụ thuộc thời tiết hay biến động thị trường.
Điểm sáng khác của Trà Vinh là những mô hình nông nghiệp công nghệ cao gắn với chế biến sâu. Công ty cổ phần Trà Bắc là một ví dụ tiêu biểu. Từ trái dừa và gáo dừa, doanh nghiệp này phát triển chuỗi sản phẩm than hoạt tính, sản phẩm từ dừa sáp mang thương hiệu Trabaco, xuất khẩu tới nhiều thị trường trên thế giới. Công nghệ chế biến hiện đại không chỉ mang lại giá trị ngoại tệ cho tỉnh, mà còn tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người trồng dừa, phần lớn là nông dân vùng sâu, vùng xa.
Nuôi tôm công nghệ cao cũng đang trở thành "trụ cột sinh kế" mới ở vùng ven biển. Nếu như những năm 1990, nông dân chủ yếu nuôi quảng canh, bán thâm canh với năng suất thấp, thì đến nay diện tích thâm canh mật độ cao đã vượt 1.100 ha, năng suất đạt 45–60 tấn/ha/vụ. Sản lượng tôm nước lợ ngày càng tăng, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GRDP của tỉnh. Những mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng cảm biến, hệ thống oxy tự động, quản lý thức ăn và chất lượng nước bằng phần mềm đang xuất hiện ngày càng nhiều, giúp hộ nuôi rút ngắn chu kỳ sản xuất, giảm hao hụt, tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, Trà Vinh vẫn đang đối mặt với một số điểm nghẽn, như chi phí đầu tư ban đầu cho thiết bị, công nghệ cao, nguồn lao động có khả năng vận hành hệ thống 4.0 chưa nhiều và đặc biệt là thiếu một cơ sở dữ liệu nông nghiệp số dùng chung, tích hợp đầy đủ các thông số về đất đai, khí hậu, hạn - mặn, sản xuất, chế biến cho toàn tỉnh.
Cùng với việc đầu tư trang thiết bị, Trà Vinh đặt vấn đề phát triển nguồn nhân lực và hoàn thiện thể chế khoa học công nghệ như hai trụ cột song hành. Các sở, ngành đề xuất sớm ban hành chính sách đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên công nghệ cao trong nông nghiệp, khuyến khích mô hình hợp tác giữa nông dân - doanh nghiệp - viện nghiên cứu, tăng cường hoạt động khuyến nông gắn với chuyển giao kỹ thuật số. Người nông dân không chỉ được hướng dẫn cách sử dụng hệ thống tưới thông minh hay bẫy côn trùng tự động, mà còn được tiếp cận kiến thức về tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc, đăng ký nhãn hiệu, thương mại điện tử.
Ở góc độ thể chế, Trà Vinh cũng đang chú trọng nhiều hơn đến tài sản trí tuệ gắn với nông nghiệp. Việc hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bảo hộ sản phẩm đặc trưng; hoàn thiện chính sách tài chính cho các kết quả nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước; quảng bá sản phẩm qua các kênh số như fanpage, YouTube, sàn thương mại điện tử… được xem là giải pháp then chốt để nông sản địa phương có chỗ đứng vững hơn trên thị trường, qua đó giúp nông dân không bị lép vế trong chuỗi giá trị.
Huyện Cầu Kè, vùng có hơn 19.800 ha đất nông nghiệp và là "tâm điểm" nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh. Chính quyền địa phương không dừng lại ở việc khuyến khích nông dân áp dụng kỹ thuật mới, mà còn tập trung quy hoạch vùng sản xuất, phát triển hợp tác xã, xây dựng mô hình liên kết chuỗi giá trị, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, kết nối tiêu thụ.
Bức tranh kinh tế tổng thể của Trà Vinh cũng cho thấy tác động tích cực của hướng đi này. Tăng trưởng GRDP 9 tháng năm 2024 ước đạt gần 9,8%, mức cao nhất từ đầu nhiệm kỳ; thu ngân sách gần chạm mốc kế hoạch cả năm; giải ngân đầu tư công vượt 60%. Điều đó cho thấy, khi nông nghiệp chuyển mạnh sang mô hình công nghệ cao, kinh tế nông thôn không chỉ bớt phụ thuộc vào thời tiết mà còn trở thành nền tảng vững chắc nâng đỡ các ngành khác./.