Đây là thành quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) triển khai từ tháng 7/2024 đến 6/2025, do Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc chủ trì.

Lúa nếp Khẩu Nua lếch sau khi được phục tráng có năng suất cao hơn, chất lượng tốt.
Cơ sở khoa học cho bảo tồn và phát triển
Trong quá trình nghiên cứu, Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã đánh giá thực trạng sản xuất và xác định vùng trồng đối với 9 loại cây trồng; xác định được 9 bản mô tả đặc điểm nông sinh học của giống; hoàn thiện được 4 quy trình kỹ thuật canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP cho các giống lúa nếp đặc sản và 5 quy trình kỹ thuật canh tác theo hướng hữu cơ một số giống cây cây ăn quả và cây nghệ.
TS. Hà Quang Thưởng, Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc cho biết, việc công nhận lưu hành đặc cách không chỉ là "tấm vé thông hành" để giống cây bản địa bước ra thị trường mà còn tạo nền tảng pháp lý, khoa học cho bảo tồn lâu dài. "Khi giống đã được chuẩn hóa, quy trình canh tác rõ ràng, bà con yên tâm mở rộng diện tích; doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) cũng vững tin đầu tư, liên kết tiêu thụ. Đây chính là điều kiện để nông sản bản địa trở thành động lực cho giảm nghèo bền vững", ông nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều hộ dân sau khi được tập huấn kỹ thuật đã thay đổi phương thức sản xuất, giảm phụ thuộc vào tập quán canh tác cũ. Nhờ đó, năng suất lúa nếp Khẩu Nua Lếch sau khi phục tráng tăng 20-25%, chất lượng hạt gạo dẻo hơn, thơm hơn, phù hợp chế biến cốm, bánh chưng, rượu nếp - những sản phẩm có thể tham gia OCOP và du lịch ẩm thực.
Không chỉ dừng lại ở cây trồng, nhiều mô hình ứng dụng KH&CN và chuyển đổi số tại Thái Nguyên cũng góp phần trực tiếp vào công cuộc giảm nghèo. Các HTX đã áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, giúp sản phẩm bản địa như chè, gạo nếp, nghệ vàng tiếp cận các chuỗi siêu thị lớn. Nhiều xã vùng sâu triển khai sổ tay điện tử nông nghiệp, hướng dẫn kỹ thuật canh tác qua nền tảng số, giúp bà con tiếp cận nhanh hơn với tiến bộ khoa học. Đây là những thay đổi thiết thực, biến lợi thế bản địa thành giá trị hàng hóa và thu nhập bền vững.

Quýt Bắc Kạn giúp nông dân yên tâm sản xuất, mở ra cơ hội thoát nghèo cho nhiều hộ vùng khó khăn.
Khẳng định thương hiệu từ những cây trồng bản địa
Trong số các giống cây đặc sản, hồng không hạt là cây trồng lâu đời, phân bố rải rác ở các xã phía Bắc, trong đó tập trung nhiều ở xã Đồng Phúc, Quảng Bạch, Chợ Rã... Đây là sản phẩm đầu tiên của Bắc Kạn (cũ) được cấp chỉ dẫn địa lý (2010), lọt top 100 thương hiệu nổi tiếng Việt Nam (2013), nhãn hiệu nổi tiếng do Tạp chí Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo - Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam bình chọn. Hiện nay, diện tích trồng hồng không hạt tại Thái Nguyên đạt trên 800 ha, đem lại nguồn thu ổn định cho hàng nghìn hộ dân.
Tại xã Quảng Bạch, HTX Tân Phong duy trì 17 cây đầu dòng để cung cấp mắt ghép, phục vụ nhân giống. Ông Chu Văn Tỵ, Giám đốc HTX cho biết: "Nhờ tập huấn kỹ thuật, bà con chủ động ghép, nhân giống chuẩn, nguồn gốc rõ ràng. Sản xuất hiệu quả hơn, thu nhập nâng cao, bà con phấn khởi vì có thêm cơ hội thoát nghèo bền vững".
Không kém phần quan trọng, cây quýt Bắc Kạn cũng khẳng định vị thế "cây làm giàu". Được cấp chỉ dẫn địa lý từ năm 2012 và đạt danh hiệu "Thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam" năm 2015, quýt Bắc Kạn hiện có diện tích trên 1.800ha. Ông Lưu Đình Tuyên, xã Bạch Thông chia sẻ: "Việc công nhận giống quýt bản địa giúp nông dân yên tâm sản xuất, tránh rủi ro trồng sai giống, giảm lãng phí, đồng thời mở ra cơ hội thoát nghèo cho nhiều hộ vùng khó khăn".
Ngoài hồng và quýt, các giống lúa nếp Khẩu Nua Lếch, Nếp Tài, Khẩu Nua Pái, Khẩu Nua Lương, nghệ vàng, đào Toáng… đều giàu tiềm năng, gắn liền bản sắc địa phương. Đây là những giống quý vốn nổi tiếng thơm ngon, gắn bó lâu đời với đời sống văn hóa người Tày, Nùng; cần được bảo tồn, phục tráng để phát triển theo hướng hàng hóa. Nhờ phục tráng và áp dụng VietGAP, năng suất tăng rõ rệt, giá trị kinh tế cao gấp 1,5-2 lần so với lúa thường. Đây là cơ sở để các địa phương xây dựng thương hiệu "gạo nếp đặc sản Thái Nguyên" và tham gia OCOP.
Trước khi có 9 giống cây vừa được công nhận, Bắc Kạn từng gây tiếng vang khi bí xanh thơm - giống bí quý riêng có của huyện Ba Bể - được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp mã số lưu hành đặc cách CNLH.2022.38.
Điểm đặc biệt của bí xanh thơm là toàn bộ thân, lá, hoa, quả đều có mùi thơm như nếp cái hoa vàng. Khi chế biến, bí cho độ dẻo, thơm, vị đậm ngậy, trở thành món ăn bổ dưỡng, được người tiêu dùng ưa chuộng. Song giống bí này chỉ cho chất lượng tốt nhất khi trồng quanh vùng hồ Ba Bể.
Để bảo tồn và phát triển giống quý, từ năm 2020-2022, Sở KH&CN Bắc Kạn đã thực hiện đề tài phục tráng, chọn lọc 500 cá thể, xác định được dòng LVC (bí thơm phấn trắng) có kiểu hình đặc trưng và đủ tiêu chuẩn làm giống. Mô hình sản xuất giống 1 ha tại xã Yến Dương và Địa Linh cung cấp 5 tấn quả giống cho nông dân. Năm 2022, diện tích bí xanh thơm đạt hơn 200 ha, sản lượng 8.000 tấn, giá trị sản xuất hơn 200 triệu đồng/ha - gấp nhiều lần cây lúa.
Sản phẩm bí xanh thơm đã đạt chứng nhận VietGAP, hữu cơ PGS, OCOP 3 sao và được các HTX chế biến, đưa vào hệ thống siêu thị ở nhiều tỉnh, thành phố. Đặc biệt, sự kiện xúc tiến tiêu thụ bí xanh thơm gắn với du lịch trải nghiệm vào tháng 6/2022 đã giúp giống bí này được nhiều du khách biết đến, mở ra hướng phát triển nông sản gắn với du lịch sinh thái.
Bài học từ bí xanh thơm là minh chứng rõ nét: Khi giống bản địa được công nhận, chuẩn hóa và tổ chức sản xuất bài bản, giá trị gia tăng sẽ vượt xa cây trồng truyền thống, tạo động lực phát triển kinh tế và giảm nghèo.

Mô hình sản xuất giống bí thơm với diện tích 1ha tại 2 xã Yến Dương và Địa Linh đã cung cấp được 5 tấn quả giống cho người dân.
Nâng tầm đặc sản, mở lối ra thị trường
Điểm nhấn của nhiệm vụ KH&CN lần này không chỉ dừng ở bảo tồn giống mà còn xây dựng quy trình canh tác an toàn, minh bạch - yếu tố ngày càng được thị trường trong và ngoài nước coi trọng.
Đại diện Sở KH&CN Thái Nguyên, khẳng định: "Khi giống đã được công nhận, điều quan trọng là tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Chúng tôi định hướng hình thành vùng hàng hóa lớn, gắn kết nông dân - HTX - doanh nghiệp, kết nối với OCOP và hệ thống siêu thị. Đây là con đường để đặc sản Thái Nguyên không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh quốc tế".
Thực tế, nhiều sản phẩm bản địa Thái Nguyên đã đạt OCOP 3 - 5 sao, trong đó nổi bật là chè, gạo nếp, quýt, hồng, nghệ. Khi được chuẩn hóa thêm về giống, các sản phẩm này có "tấm hộ chiếu" vững vàng hơn để mở rộng thị trường, hướng tới xuất khẩu.
Không chỉ dừng ở sản xuất, nhiều địa phương còn hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cho thanh niên, phụ nữ và đồng bào yếu thế. Các dự án khởi nghiệp từ nông sản bản địa như tinh bột nghệ, rượu nếp, trà thảo dược, sản phẩm OCOP 4 - 5 sao được hỗ trợ vốn, đào tạo kỹ năng kinh doanh, kết nối thương mại điện tử. Nhờ đó, nhiều hộ nghèo đã vươn lên thành chủ hộ kinh doanh, tạo việc làm tại chỗ, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo ở nông thôn. Song song, các nền tảng số của tỉnh cũng mở rộng dịch vụ công trực tuyến, giúp người dân dễ dàng tiếp cận chính sách hỗ trợ sản xuất, xóa đói giảm nghèo.
Những quả hồng không hạt, múi quýt ngọt, hạt lúa nếp dẻo thơm hay củ nghệ vàng giờ đây không chỉ là sản vật vùng cao, mà đã trở thành thương hiệu, khẳng định vị thế nông nghiệp miền núi.
Việc công nhận 9 giống cây trồng bản địa Thái Nguyên không chỉ mang ý nghĩa khoa học - kỹ thuật, mà còn là chiến lược phát triển sinh kế bền vững. Đây là nền tảng để sản phẩm OCOP nâng tầm chất lượng, vững vàng ở thị trường trong nước và từng bước chinh phục thị trường quốc tế.
Quan trọng hơn, những kết quả từ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho thấy: Nếu tiếp tục đầu tư đồng bộ vào hạ tầng số, đào tạo nhân lực, khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo và kết nối thị trường, miền núi phía Bắc sẽ không chỉ có những "đặc sản làm giàu" mà còn có một nền kinh tế số nông thôn năng động, bền vững. Đây chính là giải pháp then chốt để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi với đồng bằng trong giai đoạn tới.